Chủ Nhật, ngày 02 tháng 11 năm 2025. Chào mừng đến cổng thông tin điện tử Bệnh viện Y học cổ truyền Thành phố Hồ Chí Minh. TUẦN LỄ "MANG Y HỌC CỔ TRUYỀN ĐẾN VỚI NGƯỜI DÂN"

Thông tin thuốc

RISEDRONATE và ALENDRONATE trong điều trị loãng xương

Loãng xương (Osteoporosis) là tình trạng rối loạn chuyển hoá của xương dẫn đến tổn thương độ chắc của xương đưa đến tăng nguy cơ gãy xương [1].

Độ chắc của xương bao gồm sự toàn vẹn cả về khối lượng và chất lượng của xương.

− Khối lượng xương được biểu hiện bằng [1]:

+ Mật độ khoáng chất của xương (Bone Mineral Density – BMD).

+ Khối lượng xương (Bone Mass Content – BMC).

− Chất lượng xương phụ thuộc vào [1]:

+ Thể tích xương.

+ Vi cấu trúc của xương (Thành phần chất nền và chất khoáng của xương).

+ Chu chuyển xương (Tình trạng tổn thương vi cấu trúc xương, tình hình sửa chữa cấu trúc của xương).

Trong trường hợp không có chống chỉ định cụ thể, bisphosphonate đường uống (risedronat và alendronate) được coi là liệu pháp đầu tay cho hầu hết bệnh nhân có nguy cơ gãy xương cao vì hiệu quả, chi phí hợp lý và dữ liệu an toàn lâu dài. [1,4,14]

Mặc dù cả risedronate và alendronate đều thuộc nhóm thuốc bisphosphonate nhưng một số nghiên cứu đã chứng minh cho thấy vẫn có sự khác nhau giữa 2 loại trên.

Hiệu quả chống loãng xương

Thử nghiệm so sánh Fosamax (alendronate) và Actonel (risedronate) – FACT là một thử nghiệm mù đôi ngẫu nhiên, kéo dài 2 năm, so sánh Alendronate 70 mg mỗi tuần một lần với Risedronate 35 mg mỗi tuần một lần ở 1053 phụ nữ sau mãn kinh bị loãng xương ở năm đầu thử nghiệm và 833 phụ nữ sau mãn kinh có BMD thấp tham gia giai đoạn mở rộng. [7]

FACT đã kiểm tra những thay đổi so với ban đầu về cả mật độ khoáng xương (BMD) và các dấu hiệu sinh hóa của quá trình luân chuyển xương. Cả hai loại thuốc này đều làm tăng đáng kể BMD so với thời điểm ban đầu tại thời điểm 6 và 12 tháng ở mấu chuyển hông, cột sống thắt lưng, toàn bộ hông và cổ xương đùi. Tuy nhiên, Alendronate có liên quan đến sự gia tăng BMD lớn hơn đáng kể so với Risedronate. Cả hai loại thuốc này đều làm giảm đáng kể về mặt thống kê các dấu hiệu sinh hóa của quá trình luân chuyển xương so với ban đầu, nhưng mức giảm này lớn hơn ở nhóm alendronate. Khả năng dung nạp ở đường tiêu hóa trên giữa hai bisphosphonate này là tương tự nhau. FACT kéo dài thử nghiệm thêm 1 năm và Alendronate đã được chứng minh là có hiệu quả hơn Risedronate trong việc tăng mật độ chất khoáng trong xương và giảm quá trình luân chuyển xương mà không làm tăng nguy cơ tác dụng phụ. [7]

Tỷ lệ gãy xương hông và xương ngoài đốt sống

Trong một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên hơn 33.000 bệnh nhân trên 65 tuổi nhằm phân tích tỷ lệ gãy xương ngoài đốt sống và xương hông trong năm đầu điều trị bằng Risedronate và Alendronate, đã chứng minh rằng nhóm bệnh nhân được điều trị bằng Risedronate đã giảm nguy cơ gãy xương rõ rệt và sớm hơn so với nhóm điều trị bằng Alendronate. Cụ thể, tỷ lệ gãy xương ngoài đốt sống của nhóm sử dụng Risedronate thấp hơn 19% sau 6 tháng và 18% sau 12 tháng so với nhóm sử dụng Alendronate; Tỷ lệ gãy xương hông ở nhóm dùng Risedronate thấp hơn 46% sau 6 tháng và thấp hơn 43% sau 12 tháng so với nhóm dùng Alendronate. [12]

Nguy cơ gãy xương khi ngừng thuốc

Mặc dù alendronate và risedronate được kê đơn rộng rãi cho những người mắc bệnh loãng xương để giảm nguy cơ gãy xương, nhưng sau nhiều năm sử dụng, thuốc có thể gây những tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng – cụ thể là gãy xương hông. Vì vậy, các bác sĩ và chuyên gia khuyến nghị những bệnh nhân điều trị loãng xương bằng bisphosphonate từ 3 đến 5 năm nên ngừng sử dụng thuốc từ 2 đến 3 năm nhằm đánh lại nguy cơ gãy xương hông. [6]

Trong một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu so sánh giữa 2 loại thuốc bisphosphonate đường uống, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng trong thời gian tạm nghỉ thuốc, risedronate có nguy cơ gãy xương hông cao hơn alendronate. Cụ thể, cuộc nghiên cứu đã sử dụng cơ sở dữ liệu chăm sóc sức khỏe được tài trợ bởi Viện nghiên cứu Y tế Canada bao gồm các cư dân Ontario từ 65 tuổi trở lên. Họ tập trung vào hơn 50.000 người đã sử dụng risedronate hoặc alendronate trong ít nhất 3 năm trước thời gian tạm nghỉ thuốc (Khoảng 25.000 người dùng risedronate được so sánh với nhóm còn lại dùng alendronate có các đặc điểm tương tự). Nhìn chung, ở những bệnh nhân đã sử dụng risedronate, thời gian tạm nghỉ thuốc sau hơn 2 năm có nguy cơ gãy xương hông cao hơn 18% so với những người đã sử dụng alendronate – các nhà nghiên cứu đã viết. [10]

Alendronate có thời gian bán hủy dài hơn risedronate, vì vậy, thời gian bảo vệ gãy xương còn lại có thể lâu hơn. Risedronate có “ái lực liên kết” với xương yếu hơn alendronate, do đó, những người đang trong trong thời gian tạm ngừng thuốc risedronate nên được đánh giá lại tình trạng loãng xương và có thể bắt đầu dùng thuốc lại sớm hơn so với những người đã sử dụng alendronate. [5,10]

Ái lực liên kết với xương

Mặc dù bisphosphonate tác động trực tiếp lên các tế bào hủy xương và can thiệp vào các quá trình sinh hóa cụ thể như quá trình prenyl hóa protein, song, khả năng hấp phụ vào khoáng chất của xương cũng góp phần vào hiệu lực và thời gian tác dụng của chúng. Một nghiên cứu so sánh ái lực liên kết với hydroxyapatite (thành phần chính của xương) của 6 loại bisphosphonate đã đưa ra kết quả cho thấy alendronate có ái lực liên kết với xương mạnh hơn risedronate. Kết quả này có ý nghĩa lâm sàng tiềm tàng trong việc tìm hiểu sự khác biệt giữa các bisphosphonate mạnh, chẳng hạn như thời gian tác dụng của alendronate dường như kéo dài hơn so với tác dụng dễ hồi phục hơn của risedronate.[8]  

Sự khác biệt về đặc tính ái lực liên kết của các bisphosphonate không chỉ xác định mức độ liên kết với khoáng chất trong xương mà còn xác định mức độ phân bố vào mạng lưới ống xương của chúng. Một nghiên cứu của Anke J Roelofs và cộng sự đã đưa ra giả thuyết rằng các hợp chất có ái lực cao ít phân bố đến các vị trí ở xa, bao gồm cả mạng lưới tế bào xương rộng lớn, bởi vì các hợp chất này sẽ bị giữ lại bởi khoáng chất đầu tiên chúng gặp phải. Cụ thể, nghiên cứu này đã cho thấy, đặc tính liên kết xương yếu hơn như risedronate dường như thâm nhập sâu hơn vào xương so với các bisphosphonate có liên kết mạnh hơn như alendronate và được chứng minh là có khả năng tiếp cận rõ rệt hơn với các tế bào xương [11]. Những tương tác tiềm năng này của risedronate với tế bào xương có thể góp phần vào hiệu quả chống gãy xương của chúng. Hiện tượng này giúp giải thích tại sao cả hai loại thuốc này đều có hoạt tính chống gãy xương tương tự nhau, mặc dù liều risedronate được sử dụng trên lâm sàng chỉ bằng khoảng một nửa so với alendronate và risedronate có hiệu lực ức chế tiêu xương qua trung gian hủy cốt bào cao hơn alendronate khoảng 45 lần. [5,12]

Bảng so sánh alendronate và risedronate [2]
 

ALENDRONATE

RISEDRONATE

Dược lực học

–   Là một amino bisphosphonate tổng hợp, một chất đồng đẳng của pyrophosphat, có tác dụng đặc hiệu ức chế huỷ xương .

–   Không bị các phosphatase thuỷ phân.

–   Là một pyridinyl bisphosphonate, thuốc gắn với hydroxyapatit của xương và ức chế quá trình tiêu xương.

Tích tụ chọn lọc ở các vị trí tiêu xương đang hoạt động, ức chế sự hoạt động của các huỷ cốt bào làm giảm tốc độ huỷ xương và gián tiếp làm tăng mật độ khoáng của xương.

Dược động học

–   Hấp thu ít theo đường uống. Thức ăn, sản phẩm chứa calci hay các cation đa hoá trị làm giảm hấp thu thuốc. SKD đường uống khoảng 0,7% khi đói, giảm xuống còn 0,4% nếu uống 30p trước khi ăn; và hầu như không đáng kể nếu uống trong vòng 2h sau khi ăn.

–   Phân bố: Thể tích phân bố khoảng 28 lít. Khoảng 78% thuốc được hấp thu gắn với protein huyết tương.

–   Chuyển hóa: Thuốc không bị chuyển hoá;

–   Thải trừ: Khoảng một nửa thuốc sau khi hấp thu được đào thải qua nước tiểu; nửa còn lại được giữ lại ở xương với nửa đời thải trừ pha cuối lên tới 10 năm.

–   Hấp thu: Thuốc hấp thu nhanh sau khi uống. Nồng độ đỉnh đạt được sau uống 1h với viên nén và sau 3h với viên nén giải phóng kéo dài. SKD thuốc khoảng 0,63%. Thức ăn làm giảm SKD 30-55% với viên nén thông thường và 30% với viên nén giải phóng kéo dài.

–   Phân bố: Thể tích phân bố ở người lớn khoảng 13,8 lit/kg. Thuốc gắn vào protein khoảng 24%.

–   Chuyển hoá: Thuốc không bị chuyển hoá trong cơ thể.

–   Thải trừ: Thuốc thải trừ chủ yếu qua nước tiểu (85%). Độ thanh thải qua thận của thuốc là 105 ml/phút, độ thanh thải tổng là 122 ml/phút. Nửa đời thải trừ của thuốc trên người bệnh loãng xương sau mãn kinh là 561 giờ.

Dạng bào chế

–   Viên nén 10mg, ngày/lần, hoặc

–   Viên nén 70mg tuần/lần

–   Viên nén 5mg ngày/lần, hoặc

–   Viên nén 35mg tuần/lần, hoặc

–   Viên nén 150mg tháng/lần

–   Viên nén giải phóng kéo dài 35mg tuần/lần

Đối tượng áp dụng BHYT

*Phạm vi áp dụng: Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán điều trị loãng xương, sử dụng tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương và khoa cơ xương khớp của bệnh viện hạng đặc biệt, hạng I. [2]

*Phạm vi áp dụng: Quỹ bảo hiểm y tế thanh toán điều trị tại Bệnh viện hạng đặc biệt và hạng I; Bệnh viện hạng II, Bệnh viện hạng III và hạng IV; Phòng khám đa khoa thuộc bệnh viện đa khoa hoặc thuộc trung tâm y tế quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, phòng khám đa khoa, phòng khám chuyên khoa, nhà hộ sinh tư nhân đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân tuyến chuyên môn kỹ thuật tương đương tuyến III.  [2]

Một số lưu ý khi sử dụng bisphosphonate đường uống
Anh chup Man hinh 2025 01 20 luc 07.29.02

Tác dụng không mong muốn (ADR)[2,13]

Tần suất có thể thay đổi theo sản phẩm, liều dùng và chỉ định.[2]

Bisphosphonates thường được dung nạp tốt, hầu hết các tác dụng phụ đều không nghiêm trọng. Đã có báo cáo về một số tác dụng phụ nghiêm trọng khi sử dụng bisphosphonate nhưng cực kỳ hiếm.[13]

Anh chup Man hinh 2025 01 20 luc 07.30.50
Tài liệu tham khảo:
  1. Nguyễn Thị Xuyên, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh cơ xương khớp, Nhà xuất bản y học, 2016.
  2. Dược thư quốc gia Việt Nam 2022 (Tập II).
  3. Thông tư 20/2022/TT-BYT về Danh mục và tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm, thuốc phóng xạ và chất đánh dấu thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
  4. Suzanne N. Morin, Sidney Feldman, et al. Clinical practice guideline for management of osteoporosis and fracture prevention in Canada: 2023 update. October 10, 2023; 195(39): E1333-E1348. DOI:https://doi.org/10.1503/cmaj.221647
  5. Gregson, C.L., et al. UK clinical guideline for the prevention and treatment of osteoporosis. May 05, 2022; 17(58). DOI: https://doi.org/10.1007/s11657-022-01061-5.
  6. Robert A Adler,Ghada El‐Hajj Fuleihan, et al. Managing Osteoporosis in Patients on Long‐Term Bisphosphonate Treatment: Report of a Task Force of the American Society for Bone and Mineral Research. Journal of Bone and Mineral Research. 1 January 2016; 31(1): 16–35. DOI: https://doi.org/10.1002/jbmr.2708.
  7. Sydney Bonnick, Kenneth G. Saag, et al. Comparison of Weekly Treatment of Postmenopausal Osteoporosis with Alendronate Versus Risedronate Over Two Years. The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism.1 July 2006; 91(7): 2631–2637. DOI: https://doi.org/10.1210/jc.2005-2602.
  8. H. Nancollas, R. Tang, et al. Novel insights into actions of bisphosphonates on bone: Differences in interactions with hydroxyapatite. Bone. May 2006; 38(5): 617-627. DOI:https://doi.org/10.1016/j.bone.2005.05.003.
  9. Kaleen N Hayes, Kevin A Brown, et al. Comparative Fracture Risk During Osteoporosis Drug Holidays After Long-Term Risedronate Versus Alendronate Therapy : A Propensity Score-Matched Cohort Study. Annals of Internal Medicine. March 2022; 175(3):335-343. DOI: https://doi.org/10.7326/M21-2512.
  10. Henry G. Bone, David Hosking, et al. Ten Years’ Experience with Alendronate for Osteoporosis in Postmenopausal Women. New England Journal of Medicine. March 18,2004; 350(12):1189-1199. DOI:https://doi.org/10.1056/NEJMoa030897.
  11. Anke J Roelofs, Charlotte A Stewart, et al. Influence of bone affinity on the skeletal distribution of fluorescently labeled bisphosphonates in vivo. Journal of Bone and Mineral Research. 1 April, 2012; 27(4):835–847. DOI: https://doi.org/10.1002/jbmr.1543.
  12. Ranuccio Nuti. Updates on mechanism of action and clinical efficacy of risedronate in osteoporosis. Clinical Cases in Mineral and Bone Metabolism. 2014 Sep-Dec; 11(3): 208–214. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4269145/
  13. Kavitha Ganesan, Amandeep Goyal, Douglas Roane. In: StatPearls [Internet]. StatPearls Publishing;2023. Accessed 2023 July.
  14. Harold N Rosen. Bisphosphonate therapy for the treatment of osteoporosis. In: UpToDate. Wolters Kluwer Health 2024.
  15. Alendronate / Risedronate: Drug information. In: UpToDate. Wolters Kluwer Health 2024. 
Tác giả: DS. Phạm Hoàng Ngân, DS. Lê Thị Hồng Hà 

Đối tác