1. Châm cứu trong y học cổ truyền
Châm cứu là phương pháp tác động vào huyệt được sử dụng từ lâu đời và phổ biến trên lâm sàng. Mặc dù vẫn tạo được hiệu quả điều trị, tuy nhiên tác dụng giảm đau của châm cứu thường không kéo dài, đòi hỏi người bệnh phải đến các cơ sở điều trị với tần suất thường xuyên, gây khó khăn cho việc điều trị, nhất là trong điều trị đau mạn tính.
2. Cấy chỉ trong y học cổ truyền
Cấy chỉ là phương pháp đưa chỉ tự tiêu vào huyệt nhằm duy trì sự kích thích lâu dài, qua đó tạo tác dụng điều trị như châm cứu. So với châm cứu kinh điển, cấy chỉ điều trị đau có ưu điểm là tiện lợi, tiết kiệm thời gian, tạo tác động giảm đau kéo dài và liên tục.
Đau là một cảm giác hay trải nghiệm cảm xúc khó chịu liên quan đến tổn thương mô thực tế hay tiềm tàng (International Association for the Study of Pain – IASP). Sinh lý của đau rất phức tạp, với sự tham gia của nhiều thành phần: hệ thống nhận cảm đau (thụ thể, đầu tận thần kinh), các con đường dẫn truyền (tủy sống – đồi thị, tủy sống – hạ đồi, tủy sống – hệ lưới, cột lưng – bó dọc giữa…) và nhiều vùng khác nhau của não bộ (đồi thị, hệ lưới, vỏ não…). Do đó, đơn trị liệu trong đau thường không mang lại hiệu quả như mong đợi, và phần lớn các nhà nghiên cứu lẫn thực hành lâm sàng hiện nay đều đồng ý rằng, điều trị đau là điều trị đa mô thức.
Xem thêm: Những tác dụng tuyệt vời của phương pháp cấy chỉ
3. Kiểm soát Đau trong y học cổ truyền
Một trong những “vũ khí” hàng đầu để kiểm soát đau trong Y học hiện đại (YHHĐ) là thuốc giảm đau. Cho đến nay, dựa trên những hiểu biết về sinh lý của đau, nhiều nhóm thuốc đã và đang được sử dụng. Mặc dù vậy, bên cạnh tác dụng mong muốn là giảm đau, các thuốc này vẫn có các tác dụng không mong muốn, khiến thầy thuốc và người bệnh e ngại sử dụng, đặc biệt là trong điều trị đau mạn tính, từ đó dẫn đến việc không thể kiểm soát đau đầy đủ. Đây cũng là nguyên nhân khiến người bệnh tìm đến Y học cổ truyền (YHCT) nhiều nhất (thống kê của Bộ Y tế Mỹ năm 2016).
Y học cổ truyền đề cập đến đau từ rất sớm (Hoàng Đế Nội kinh, thế kỷ 2 TCN). Điều trị đau theo YHCT – bằng cách tiếp cận tích cực ở cả 3 phương pháp; ngoài mảng lớn là điều trị dùng thuốc (Dụng dược), người thầy thuốc Y học cổ truyền còn chú trọng đến các phương pháp Dưỡng sinh (Dụng dưỡng sinh), rèn luyện thái độ tâm thần vui vẻ, lạc quan trong cuộc sống, tập luyện phù hợp với từng người, chế độ thực dưỡng – ăn uống phù hợp) và đặc biệt là sử dụng các Huyệt vị trên cơ thể để kiểm soát đau – điều hòa hoạt động cơ thể (Dụng Huyệt).
4. Huyệt
Theo Y học cổ truyền, “Huyệt” là nơi thần khí hoạt động vào ra (Linh khu – Cửu châm thập nhị nguyên), là cửa ngõ lưu thông giữa trong và ngoài cơ thể, cũng là nơi tác động để phòng và trị bệnh.
Trong điều trị đau, các Huyệt thường được lựa chọn theo 3 nguyên tắc lớn:
- Chọn huyệt tại chỗ: huyệt tại chỗ đau và lân cận nơi đau.
- Chọn huyệt theo lý luận đường kinh: nguyên lạc, du mộ, ngũ du, khích huyệt.
- Chọn các huyệt đặc hiệu ví dụ đau căng gân cơ – chọn huyệt chủ về gân cơ như huyệt Dương lăng tuyền (là huyệt chủ về Cân).
Ngày nay, với những hiểu biết sâu hơn về thần kinh sinh học, việc tác động vào Huyệt sẽ tạo ra tác dụng giảm đau thông qua các cơ chế:
- Cơ chế tại chỗ: tác động vào huyệt sẽ kích thích các tế bào Mast trong mô liên kết tại chỗ giải phóng encephalin và endorphin cục bộ, cải thiện lưu lượng máu cục bộ và thúc đẩy quá trình trao đổi chất.
- Cơ chế tủy sống: khi tác động vào huyệt sẽ kích thích các cơ tại chỗ, các sợi hướng tâm dẫn truyền đến sừng phía sau của tủy sống và cả sợi giao cảm đi đến nội tạng đích trong cùng một khoanh tủy sống. Phản ứng tiết đoạn giúp giải thích phần nào phương pháp dùng du huyệt, mộ huyệt và các huyệt ở xa (tay, chân) để châm cứu làm giảm đau một số bệnh thuộc nội tạng có cùng tiết đoạn thần kinh chi phối. Ngoài ra, khi tác động vào huyệt đến khi đạt cảm giác “đắc khí”, các kích thích sẽ được dẫn truyền theo sợi Aβ, từ đó ức chế tín hiệu đau được dẫn truyền theo sợi Aδ và sợi C, làm giảm cảm giác đau (Lý thuyết kiểm soát cổng của Melzack và Wall).
- Cơ chế toàn thân: tác động vào huyệt giúp giải phóng các chất giảm đau nội sinh như beta endorpin, tạo được tác dụng toàn thân và kéo dài hiệu quả giảm đau.
TTUT-BS CKII Đỗ Tân Khoa
Châm cứu là phương pháp tác động vào huyệt được sử dụng từ lâu đời và phổ biến trên lâm sàng. Mặc dù vẫn tạo được hiệu quả điều trị, tuy nhiên tác dụng giảm đau của châm cứu thường không kéo dài, đòi hỏi người bệnh phải đến các cơ sở điều trị với tần suất thường xuyên, gây khó khăn cho việc điều trị, nhất là trong điều trị đau mạn tính. Linh Khu viết: “Đối với những người bị bệnh mãn tính thì tà khí ở sâu, xâm nhập vào người bệnh sẽ ở sâu bên trong và lưu lại lâu dài”. Để khắc phục nhược điểm này, phương pháp cấy chỉ ra đời. Cấy chỉ là phương pháp đưa chỉ tự tiêu vào huyệt nhằm duy trì sự kích thích lâu dài, qua đó tạo tác dụng điều trị như châm cứu. So với châm cứu kinh điển, cấy chỉ điều trị đau có ưu điểm là tiện lợi, tiết kiệm thời gian, tạo tác động giảm đau kéo dài và liên tục.
Ngoài các cơ chế tạo tác dụng giảm đau như châm cứu, cấy chỉ còn có tác dụng tăng chuyển hóa, vì chỉ cấy vào đóng vai trò như một protein tự tiêu. Trong quá trình tự tiêu, chỉ tạo ta các phản ứng hóa sinh tại chỗ, bao gồm:
Tăng tái tạo protein và carbohydrat, giảm dị hóa, tăng đồng hóa, tăng protein, qua đó có tác dụng làm mạnh cơ.
Tăng sinh lưới mao mạch, cải thiện tuần hoàn máu ở vùng cấy chỉ, giảm acid lactic (thiếu máu mô có thể gây đau).
Sản sinh các sợi thần kinh mới trong bó cơ.
Để gia tăng hiệu quả điều trị đau, khi áp dụng cấy chỉ trong thực hành lâm sàng, cần lưu ý một số vấn đề:
Công thức huyệt: ngoài lựa chọn huyệt theo các công thức huyệt kinh điển, cần chú trọng các huyệt có tác dụng điều trị thông qua đúc kết kinh nghiệm lâm sàng, ví dụ Tam pháp Đại chùy trong điều trị đau cổ gáy.
Cải tiến kỹ thuật: cấy chỉ xuyên huyệt, một hình thức kết hợp cấy chỉ với mãng châm, tạo ra tác dụng điều khí nhanh, mạnh, thích hợp điều chỉnh các chứng đau lâu ngày, tà khí xâm phạm sâu. Cấy chỉ vuông góc với sợi cơ làm cơ thư giãn, có tác dụng giải co cơ. Trong khi đó, cấy chỉ song song với sợi cơ gây kích thích cơ, có tác dụng làm mạnh các cơ yếu…
Lựa chọn loại chỉ: như đã trình bày, ngoài tác dụng của huyệt vị, bản thân chỉ cũng mang lại tác dụng điều trị. Ví dụ, ngoài chỉ catgut thường sử dụng, còn có chỉ PDO – một loại chỉ tổng hợp có độ tương thích mô cao, thời gian tự tiêu lâu, có khả năng kích thích sinh collagen cho mô. Chỉ PDO cũng có nhiều dạng sản xuất khác nhau, như chỉ trơn, chỉ xoắn, chỉ gai… với các đặc tính khác nhau (chỉ xoắn gây tổn thương mô khi cấy nhiều hơn chỉ trơn nhưng hiệu quả hơn trong quá trình kích thích tân sinh collagen…).
Bằng chính kinh nghiệm lâm sàng của người thầy thuốc qua thăm khám, chẩn đoán chính xác nguyên nhân, mức độ của “Đau” và đưa ra phương pháp điều trị toàn diện và phù hợp, trong đó sử dụng phương huyệt và liệu trình điều trị đúng đắn là cơ sở giúp người bệnh đẩy lùi và điều trị đau có hiệu quả. Cùng với đó việc sử dụng cấy chỉ vô huyệt thực sự là bước tiến mới trong điều trị đau bằng y học cổ truyền, với các lợi ích vượt trội như:
- Phối hợp nhiều cơ chế có tác dụng điều trị “Tại chỗ đau” như giảm đau, giảm viêm, giảm co cứng cơ và tác dụng toàn thân.
- Cơ chế duy trì kích thích lâu dài trên huyệt sau khi cấy chỉ giúp tăng kích thích của từng huyệt và của từng kỹ thuật châm giúp tăng hiệu quả, như điều trị đau cổ vai gáy bằng kỹ thuật Tam pháp đại chùy…
- Cơ chế kích thích tăng sinh Collagen, tăng dinh dưỡng và tuần hoàn tại chỗ cũng góp phần không nhỏ trong điều trị giảm đau nhất là giảm đau do nguyên nhân do thoái hóa khớp, thoái hóa cột sống…
Từ những lợi ích trên, “Cấy chỉ” đã là một chỉ định thường được các thầy thuốc y học cổ truyền chỉ định vì được đánh giá có hiệu quả cao cùng tính an toàn và tiện lợi.
Thầy thuốc ưu tú – Bác sĩ chuyên khoa 2 ĐỖ TÂN KHOA – Giám đốc Bệnh viện
Nguồn: Sức khoẻ online